Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

TN-04-C



Chúa Nhật thứ 4 Thường Niên
 (Năm C − ngày 31-1-2016)


ĐỌC LỜI CHÚA

·   Gr 1,4-5.17-19: (17) Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng. Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn.

·   1 Cr 12,31–13,13: (31) Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả. (13) Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.


·   TIN MỪNG: Lc 4,21-30

Người ngôn sứ bị từ chối tại chính quê hương mình

(21) Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe». (22) Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.

Họ bảo nhau: «Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?» (23) Người nói với họ: «Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphácnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!» (24) Người nói tiếp: «Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.

 (25) «Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ítraen; (26) thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn. (27) Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ítraen, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi».

(28) Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. (29) Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. (30) Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao Đức Giêsu lại bị từ chối tại chính làng của mình? tại chính đất nước Do Thái? còn dân ngoại thì lại đón nhận Ngài để cuối cùng trở nên Dân Ngài? Liệu lịch sử có thể tái diễn tương tự như thế đối với Kitô giáo không?

2. Đức Giêsu có muốn dành ưu tiên cho quê hương hay dân tộc mình không? Ngài có thành công trong việc dành ưu tiên ấy cho quê hương hay dân tộc mình không? Tại sao? 

3.     Điều đã xảy ra với Do Thái có thể xảy ra tương tự với Kitô giáo không? Chúng ta phải làm gì để tránh vết xe đã đổ?


Suy tư gợi ý:

1. Các ngôn sứ thường bị từ chối tại chính quê hương mình

Đoạn Tin Mừng hôm nay (Lc 4,21-30) và một vài đoạn khác (Mt 13,53-58; Ga 1,11; 7,4b-5) cho thấy: những người cùng quê cùng làng với Đức Giêsu có vẻ coi thường Ngài và không tin ở Ngài cho lắm. Vì đối với họ, Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo hèn, và của một phụ nữ không danh giá gì trong làng. Nếu chúng ta ở vào địa vị của dân chúng làng Nadarét, chưa chắc chúng ta đã suy nghĩ và đánh giá về Ngài khác hơn họ. Và nếu có một ngôn sứ nào xuất hiện ở thời đại này, tại thành phố hay tỉnh ta đang sống, chưa chắc ta đã nhận ra và đánh giá vị ấy một cách đúng đắn.

Thông thường, người ta thường đánh giá một người tùy theo những gì thấy được ở bên ngoài, chứ không thấy được giá trị thâm sâu ở bên trong. Và càng là người thân quen với vị ngôn sứ, thì càng khó đánh giá đúng đắn vị ngôn sứ ấy, vì các ngôn sứ thường mặc lấy những dáng vẻ bên ngoài rất bình thường, và cũng thường có quan niệm rất khác với người đương thời. Người ta cũng gọi các vị ngôn sứ là «tiên tri», nghĩa là “biết trước”, nói khác đi, các ngôn sứ thường có tư tưởng đi trước thời đại, người thời đại không hiểu nổi nên thường cho họ là sai lạc và kết án họ. Chính vì thế, các ngôn sứ ít được người đồng thời và đồng hương biết được giá trị con người mình, thậm chí còn bị coi thường, khi rẻ, kết án. Vì thế, Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình» (Lc 4,24).

2.  Các ngôn sứ có muốn ưu đãi quê hương mình cũng không được

Vì thường bị người đồng thời, đồng hương hay đồng đạo coi thường và không tin, nên các ngôn sứ thường không thể hoạt động hữu hiệu hay có kết quả tốt đẹp tại quê hương hay thời đại mình. Chẳng hạn Đức Giêsu không thể làm được nhiều phép lạ tại Nadarét, vì họ cứng lòng tin (x. Mt 13,58); đồng bào và đồng đạo của Ngài chẳng những không tin Ngài mà còn tìm cách giết Ngài nữa. Thái độ của những người đồng hương, đồng đạo hoặc đồng thời với Ngài như thế, khiến họ không được lợi lộc gì vì được làm người đồng hương, đồng đạo hay đồng thời với vị ngôn sứ cả.

Đức Giêsu đã kể ra những trường hợp cụ thể minh chứng điều ấy, chẳng hạn trường hợp của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa. Thời Êlia, khi Israel bị đói, ông chẳng giúp một bà góa khốn khổ nào trong nước cả, mà lại giúp một bà góa ở tận đâu đâu, vì bà này tỏ ra yêu quí, tin tưởng và trọng vọng ông một cách đặc biệt. Thời Êlisa, biết bao người Israel bị phong hủi thì ông chẳng chữa cho ai, mà lại chữa cho một người từ ngoại quốc đến.

3.  Thực tế ấy đã xảy ra trên nhiều bình diện khác nhau

Do tình cảm tự nhiên, ngôn sứ nào cũng đều muốn dành ưu tiên quyền lợi cho quê hương mình, nhưng nhiều khi vì thái độ khinh thường và cố chấp của người đồng hương, nên quê hương của các ngôn sứ không hưởng được cái quyền ưu tiên mà các vị muốn đặc biệt dành cho. Để rồi cuối cùng sự ưu đãi đó lại được dành cho những người hay dân tộc xa lạ ở đâu đâu nhưng lại xứng đáng với sự ưu đãi đó hơn.

Thật vậy, Đức Giêsu luôn luôn muốn dành ơn cứu độ ưu tiên cho người Do Thái (x. Ga 4,22; Mt 10,6; 15,24). Nhưng Người Do Thái lại từ chối sự ưu tiên đó, nên ơn cứu độ mới được đem đến cho các dân tộc khác. Nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu nói lên thực trạng đó: chẳng hạn dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24). Và Thánh Phaolô trong thư Rôma (Rm 2,12-29) đã phần nào giải thích lý do tại sao người Do Thái lại không hưởng được sự ưu đãi ấy: «Dân ngoại là những người không có Luật Môsê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Môsê» (2,14), «Còn bạn, bạn mang tên là người Dothái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có Thiên Chúa ; bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải… Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!» (2,17.18.23), «Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. Trái lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao?» (2,25-26)

Bài Tin Mừng lễ Hiển Linh (Mt 2,1-12) cho thấy các kinh sư Do Thái – đại diện cho dân tộc được Thiên Chúa ưu tiên dành cho mọi quyền lợi thiêng liêng – mặc dù có Kinh Thánh trong tay và biết được chính xác Đức Giêsu sinh ra ở đâu, nhưng họ lại không thèm tìm đến Ngài, mà lại còn muốn làm hại Ngài. Còn các đạo sĩ – đại diện cho dân ngoại, dân không được ưu tiên – từ mãi đâu đâu tới và phải nhờ tới các kinh sư Do Thái mới biết được Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì lại quyết tâm tìm kiếm Ngài và họ đã tìm thấy.

Sự việc ấy là hình bóng của thực tế xảy ra sau đó: Mặc dù Đức Giêsu sinh ra tại Do Thái, và dân Do Thái là dân được ưu tiên hưởng ơn cứu độ, thì thực tế là cho tới nay, dân Do Thái vẫn chưa nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh Nhân Loại, mà vẫn còn tiếp tục chờ đợi. Còn những dân tộc đang tin vào Đức Giêsu hiện nay thì lại là những dân tộc bị dân Do Thái xưa khinh thị và gọi là dân ngoại. Thế là ứng nghiệm điều Đức Giêsu tiên báo trong hai dụ ngôn vừa nêu trên.

4.  Nói người lại nghĩ đến ta

Lịch sử thường hay tái diễn lại theo kiểu tương tự. Điều đó khiến ta phải suy nghĩ vì nó có thể xảy ra cho chính chúng ta. Hiện nay, Kitô giáo luôn tự hào mình là tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập, được chính Thiên Chúa mặc khải những chân lý thâm diệu nhất, và là con đường chính thống nhất dẫn đến ơn cứu độ. Kitô giáo với các tôn giáo khác cũng phần nào tương tự như Do Thái giáo với dân ngoại xưa. Liệu điều đã đúng với Do Thái giáo có đúng một cách tương tự với Kitô giáo không?

Dân Do Thái xưa lúc nào cũng tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo duy nhất đúng đắn vì là tôn giáo duy nhất được Thiên Chúa mặc khải. Còn các dân tộc khác thì thờ thần tượng, đi trong sai lạc. Nhưng kết cục ra sao? Dân Do Thái không chỉ phủ nhận Đức Giêsu mà còn giết Ngài nữa. Họ từ chối ơn cứu độ, và ơn cứu độ đã được trao cho dân ngoại. Dân ngoại lại đón nhận ơn cứu độ và gia nhập Giáo Hội. Thế thì xét cho cùng, đối với dân Do Thái, việc có tôn giáo duy nhất đúng đắn, việc nắm được nhiều chân lý hơn các dân tộc khác có ích lợi gì?

Như thế, xem ra điều quan trọng không phải là có tôn giáo chân chính cho bằng sống đúng những gì tôn giáo mình đòi hỏi, sống đúng theo lương tâm của mình. Hãy nghe thánh Phaolô nói: «Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật» (Rm 2,13). Vì thế, nếu «bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, thì như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!» (Rm 2,23). Tương tự, nếu chúng ta có tôn giáo chân chính mà lại không thèm sống đúng theo tôn giáo ấy, thì ta cũng làm nhục Thiên Chúa, Đấng thiết lập tôn giáo ấy. Lúc ấy chúng ta rất xứng đáng với lời kết án của thánh Phaolô: «Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân» (Rm 2,24). Lúc ấy, tôn giáo chân chính có ích lợi gì cho ta, hay đó chính là lý do để Thiên Chúa kết án chúng ta?

Bài Tin Mừng hôm nay chính là lời cảnh tỉnh chúng ta: Đừng để tinh thần bác ái, yêu thương của Kitô giáo lại bị chính các Kitô hữu như chúng ta coi thường, không thèm sống, mà người sống tinh thần ấy lại là những người thuộc các tôn giáo khác. Vậy tốt nhất, chúng ta hãy đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra áp dụng thật sự vào đời sống. Đừng để trường hợp của Do Thái giáo lại tái diễn một cách tương tự với Kitô giáo, trong đó người chủ động tái diễn trường hợp ấy lại chính là chúng ta!


CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã gián tiếp cảnh giác chúng con: chính quê hương, đất nước, dân tộc và đồng đạo của Ngài – là những người mà Ngài muốn dành ưu tiên hưởng ơn cứu độ Ngài đem lại – lại từ chối Ngài. Hiện nay, rất có thể chúng con đang đi vào vết xe đã đổ ấy: ngoài miệng chúng con luôn tuyên xưng mạnh mẽ niềm tin vào Đức Giêsu, nhưng đời sống của chúng con thì lại đi ngược lại những điều Ngài dạy. Chúng con tuyên xưng hay biểu lộ đức tin mạnh mẽ ra ngoài để che lấp thực tế phủ nhận đức tin ấy ở bên trong. Xin giúp chúng con ý thức rằng thái độ giả hình ấy vô cùng có hại cho chúng con. Xin Cha cứu chữa chúng con khỏi thái độ ấy.

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

TN-03-C



HIỂU & SỐNG TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 3 Thường Niên
(Năm C − ngày 24-1-2016)




ĐỌC LỜI CHÚA
 

·    Nkm 8,2-4a.5-6.8-10: (9) Tổng trấn Nêhêmi, thầy tế lễ Exơra tuyên bố: «Hôm nay là một ngày thánh dành cho Thượng Đế Hằng Hữu».

·    1Cr 12,12-30: (13) Tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể, và đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất. (27) Vậy anh em chính là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.

·    TIN MỪNG: Lc 4,14-21

Đức Giêsu tại Nadarét (// Mt 13,53-58; Mc 6,1-6)

 (14) Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. (15) Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.

 (16) Rồi Đức Giêsu đến Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. (17) Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: (18) Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, (19) công bố năm hồng ân của Chúa.

 (20) Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. (21) Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.   Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan đến tâm linh và tôn giáo, không liên quan gì đến cuộc sống đời thường của con người?

2.   Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ có bao trùm những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không? Có thể tránh được sự bao trùm ấy không? Tại sao?

3.   Người Kitô hữu có bổn phận phải tranh đấu cho quyền sống và quyền sống cho ra con người không? Tránh né việc tranh đấu ấy có phải là thái độ đúng đắn không?

Suy tư gợi ý:

1.   Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe» (Lc 4,21). Đức Giêsu hay các ngôn sứ được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc chắn không phải chỉ để tế lễ hay đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để làm cả những công việc xã hội, việc ngoài đời, như «cho người mù được sáng mắt», cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Sách Châm ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).

Thật vậy, cuộc đời của Đức Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những công việc như: chữa lành đủ mọi chứng bệnh (x. Mt 4,23; 8,1-16), trừ khử đủ mọi thứ quỉ (Mt 8,28-34; 9,32-34), hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói (Mt 14,15-21; 15,32-38)… Sách Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan Tẩy Giả – cũng là một ngôn sứ – ngoài việc dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không được lấy vợ của anh ruột mình, bất chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn dân chúng về những tội ác của họ.

2.   Đức Giêsu đến để giải phóng con người toàn diện

Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: «Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm 7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình thương.

Vì thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu là cứu độ con người một cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào được diễn tả trong kinh «Thương người có 14 mối», trong đó không chỉ có 7 mối về linh hồn mà còn có 7 mối về thể xác. 7 mối về thể xác rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp đỡ và chữa lành những kẻ ốm đau bệnh tật; thăm viếng và tìm cách giải phóng những kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc bị làm nô lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo khổ được chôn cất tử tế. Tất cả đều nhằm giúp cho mọi người – đặc biệt những kẻ nghèo khổ – được sống và chết xứng với phẩm giá cao trọng của con người, là con cái và là hình ảnh của Thiên Chúa.

3.   Người Kitô hữu phải bảo vệ quyền sống-cho-ra-người

Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những phương pháp trái tự nhiên, v.v... Điều đó thật đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng rất quan trọng – là làm cho sự sống mà mình đã bảo vệ, được sống cho xứng với phẩm giá con người – thì rất nhiều Kitô hữu lại coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi: bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng quyền được sống hạnh phúc, sống đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát triển sự sống, để sống có chất lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng ta cứu sống phải sống bất hạnh đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than khổ sở thế này?»

Như vậy, tranh đấu cho sự sống là điều rất tốt, nhưng thiết tưởng tranh đấu cho nhân quyền, tức quyền được sống-cho-ra-người, xứng với phẩm giá con người còn quan trọng, cần thiết và tốt đẹp hơn. Nhưng tiếc thay, khá nhiều người chủ trương bảo vệ sự sống lại quên hẳn cái điều còn quan trọng hơn cả việc bảo vệ sự sống!

4.   Phải tranh đấu cho công lý

Muốn mọi người được sống đúng phẩm giá của con người, xứng với địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự thịnh vượng của người này có thể gây khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của người kia. Vì thế, để được thuận lợi cho mình mọi mặt, người ta tìm đủ mọi cách để tước đoạt hoặc giảm thiểu quyền sống và quyền sống-cho-ra-người của nhau. Vì thế, muốn mọi người được sống đúng với phẩm giá của con người, phải có những người tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang tước đoạt quyền làm người của kẻ khác hầu như không bao giờ tự động trả lại quyền ấy cho người bị tước đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải trả lại. Chỉ dùng cầu nguyện hoặc lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự động trả lại sự công bằng cho mọi người quả là một ảo vọng. Nếu «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26) thì tương tự như vậy, lời cầu nguyện xuông không đi đôi với hành động không hẳn là lời cầu nguyện chân thành. Các tu sĩ trong các đan viện cầu nguyện rất nhiều, nhưng đan viện nào cũng có những bảng đề «Ora et Labora» (Cầu nguyện và Làm việc / Cầu nguyện và Hành động), ngụ ý hai việc ấy phải đi đôi với nhau. Cầu nguyện phải đi đôi với hành động, và hành động cũng phải đi đôi với cầu nguyện.

Muốn cho mọi người được sống đúng với phẩm giá của mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa, trật tự. Việc tranh đấu cho quyền sống-cho-ra-người cũng phải hăng hái và hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu để bảo vệ sự sống vậy! Là người Kitô hữu, được thúc đẩy bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận phải tranh đấu cho mọi người có quyền sống và quyền sống-cho-ra-người. Muốn thế, phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ, đồng thời cổ võ mọi người – mà trước hết là chúng ta – hãy sống yêu thương và đùm bọc lẫn nhau.

5.   Tranh đấu như thế có hợp với tinh thần Kitô hữu không?

Việc tranh đấu cho quyền làm người và quyền sống-cho-ra-người như thế tất nhiên ít nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có dính líu đến những vấn đề chính trị, hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, làm sao tránh được chuyện liên can đến chính trị? cũng như làm sao tránh được chuyện liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất cả mọi vấn đề trong xã hội con người đều liên quan đến nhau một cách chặt chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà không bị liên can đến những vấn đề ấy! Không muốn liên can đến những vấn đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất động, không nói không làm gì cả. Người muốn vô can trong những chuyện ấy chắc chắn không thích hợp với sứ mạng ngôn sứ!

Một cách tương tự, các ngôn sứ không chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình, nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng, phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng người ngôn sứ được miễn thi hành sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng ấy có liên can đến chính trị? Đức Giáo hoàng đương kim Phanxicô từng dạy: «Người Công giáo tốt là người biết tham gia chính trị» (bài giảng lễ ngày 16 tháng 9, 2013 tại nhà nguyện Santa Marta). Tham gia chính trị ở đây không phải để tranh giành địa vị, quyền bính cho mình, mà để có những phương tiện hữu hiệu làm cho xã hội trở nên công bình hơn, quyền sống và sống-cho-ra-người được tôn trọng hơn, và người dân được sống an vui hạnh phúc hơn.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan đến chính trị như những điều kỵ húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình thương. Nhiều khi chúng con coi chuyện tránh né những vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả việc tuân giữ luật tối thượng của Thiên Chúa là luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi. Amen.  

(Nguyễn Chính Kết)


Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

TN-02-C



HIỂU & SỐNG TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 2 Thường Niên
(Năm C − ngày 10-1-2016)


ĐỌC LỜI CHÚA

·     Is 62,1-5: (2) Muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng đức công chính của ngươi, mọi đế vương sẽ ngắm nhìn vinh quang ngươi tỏ rạng. Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên mới, chính là tên miệng Đức Chúa đặt cho.

·     1 Cr 12,4-11: (4) Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. (11) Chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.



·     TIN MỪNG: Ga 2,1-11

Tiệc cưới Cana

 (1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. (2) Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: «Họ hết rượu rồi». (4) Đức Giêsu đáp: «Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến». (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân: «Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo».

 (6) Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. (7) Đức Giêsu bảo họ: «Các anh đổ đầy nước vào chum đi!» Và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ: «Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc». Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói: «Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ». (11) Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. (12) Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Caphácnaum và ở lại đó ít ngày.

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.    Hôn nhân hay bậc sống đời gia đình – cùng với những vui thú, trách nhiệm, vất vả của nó – có phải là một lối sống được Thiên Chúa mong muốn và chúc lành không? Hay đó là một bậc sống thấp hèn?

2.    Trường hợp đám cưới tại Cana, nhờ sự can thiệp cứu độ của Đức Giêsu, sự thiếu rượu cuối cùng lại biến thành có rượu mà rượu ấy lại còn ngon hơn rượu trước, khiến cho đám cưới trở nên tốt đẹp hơn dự tính. Điều đó hàm ý nghĩa gì khi có sự cứu chữa hay can thiệp của Thiên Chúa?

3.    Vai trò của Đức Mẹ trong bối cảnh này quan trọng thế nào? Sự thường trong hoàn cảnh này, nếu không có Đức Mẹ, thì Chúa Giêsu có ra tay cứu chữa không?

4.    Lý do gì khiến Đức Mẹ nhận ra họ thiếu rượu? Mẹ có nhậy bén trước nhu cầu của người khác không? Tại sao Mẹ lại nhậy bén như vậy?




Suy tư gợi ý:

1.   Đức Giêsu tham dự tiệc cưới và cứu chữa thế kẹt cho đám cưới

Ngay từ khởi thủy, «Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ» (St 1,27), để từng cặp nam nữ sống thân thiện yêu thương nhau, hiệp nhất với nhau nên một thành vợ chồng, đến độ «cả hai trở thành một xương thịt» (St 2,24). Nhờ sự hiệp nhất tuyệt vời đó, hai vợ chồng được hạnh phúc và yêu thương nhau mãi mãi. Thiên Chúa muốn họ sống với nhau thành một tổ ấm, một gia đình, để yêu thương nhau, nâng đỡ nương tựa nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau, và để sinh con cái hầu duy trì nhân loại đến muôn đời. Và họ được vinh dự cộng tác với Ngài trong công cuộc tiếp tục sáng tạo con người. Đó là điều hết sức tốt đẹp, cao cả và thánh thiện, nằm trong kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa.

Vì thế, đời sống hôn nhân hay gia đình nằm trong kế hoạch đầu tiên của Thiên Chúa, tức kế hoạch sáng tạo. Do đó, ơn gọi sống đời hôn nhân và gia đình là một ơn gọi hết sức cao quí. Chính vì thế, phép lạ mở đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, là phép lạ dành cho tiệc cưới Cana. Cả Đức Giêsu, Đức Maria và các môn đệ của Ngài cùng tham dự tiệc cưới này. Điều đó nói lên rằng Thiên Chúa – qua con người Đức Giêsu – đã đánh giá bậc sống hôn nhân gia đình rất cao quí, rất thánh thiện, đáng được ủng hộ và chúc phúc. Như vậy, sự kết hợp giữa người nam và người nữ, tức bậc sống hôn nhân, đã được chính Thiên Chúa thành lập khi trao bà Eva cho ông Adam, để cả hai trở nên vợ chồng, nghĩa là «trở thành cùng một xương thịt» với nhau (St 2,24). Sự kết hợp toàn vẹn cả tinh thần lẫn thể chất này khiến họ không còn phải che dấu nhau điều gì, đã trở nên một trong những nguồn hạnh phúc tuyệt vời của cả hai vợ chồng.

Có điều đáng tiếc là kế hoạch đầu tiên này đã bị tội nguyên tổ làm hư hỏng, khiến những gì thật tốt đẹp ban đầu như tình yêu, tính dục, sự trần truồng nguyên thủy, v.v... đã bị con người hư hỏng, ích kỷ lạm dụng, biến chúng thành những nguồn tội lỗi, xấu ác: tà dâm, ngoại tình, khiêu dâm, ghen tương, phá thai, v.v... Và hậu quả tai hại của tình trạng này thật khôn lường. Vì thế, do yêu thương con người vô hạn, Thiên Chúa đã thiết lập một kế hoạch thứ hai, đó là kế hoạch cứu chuộc, do Ngôi Hai Thiên Chúa thực hiện qua Đức Giêsu với sự cộng tác của Giáo Hội do Ngài thành lập. Ơn gọi linh mục và tu sĩ nằm trong kế hoạch cứu chuộc này. Trong kế hoạch cứu chuộc này, theo suy nghĩ thần học của Giáo Hội, thì chính trong tiệc cưới Cana này, Đức Giêsu đã lập bí tích hôn nhân để sửa chữa lại tình trạng hôn nhân tốt đẹp mà Thiên Chúa đã thiết lập khi tạo dựng con người nhưng đã bị tội nguyên tổ làm hư hỏng.

2.   Kế hoạch cứu chuộc làm cho kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa thành công tốt đẹp hơn

Trong đám cưới, rượu được đưa ra ban đầu chắc chắn cũng là loại rượu ngon, ngon nhất trong khả năng kinh tế của gia đình đôi tân hôn. Nhưng sự trục trặc đã xảy ra khiến cho nếu không có sự can thiệp cứu chữa của Chúa Giêsu, gia đình đôi tân hôn sẽ bị mất mặt hay mang tiếng, và đám cưới sẽ mất vui đi rất nhiều. Nhưng chính nhờ có sự trục trặc đó mà Đức Giêsu mới ra tay cứu chữa. Và một khi Ngài ra tay cứu chữa thì bữa tiệc lại trở nên vui hơn, tốt đẹp hơn, hơn cả khi không có trục trặc xảy ra. Rượu sau này là loại rượu ngon hơn, chắc chắn khiến khách dự tiệc vui hơn, uống được nhiều hơn, và hài lòng hơn bình thường rất nhiều. Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu.

Mc tương tự, công trình sáng tạo của Thiên Chúa hết sức tốt đẹp. Nhưng rồi có sự trục trặc xảy ra do tội lỗi con người. Nhưng sự cứu chuộc của Chúa Giêsu không phải chỉ là sửa chữa cho tình trạng đó đỡ xấu đi, mà còn làm cho kết quả cuối cùng tốt đẹp hơn so với khi không xảy ra trục trặc nào. Chính vì thế, trong lễ đêm Phục sinh, Giáo Hội đã không ngần ngại tuyên bố: tội nguyên tổ là một tội hồng phúc. Vì chính nhờ có tội đó mới có kế hoạch cứu chuộc. Và theo sự khôn ngoan và toàn năng toàn ái của Thiên Chúa, chắc chắn kế hoạch cứu chuộc này không chỉ sửa chữa lại kế hoạch sáng tạo đã bị hư hỏng, mà còn làm cho kế hoạch sáng tạo ấy thành công mỹ mãn, tốt đẹp hơn lên gấp bội. Có hành xử như thế, Thiên Chúa của chúng ta mới đúng là Thiên Chúa cao cả vĩ đại, đầy quyền năng. Và chỉ Ngài mới có thể làm cho điều xấu nhất trở nên tốt nhất mà thôi. Đó chính là lý do để người Kitô hữu luôn luôn sống hân hoan và tràn đầy hy vọng vào tương lai.

Bình thường, khi con người sửa chữa một điều gì, thì tình trạng sau khi sửa chữa sẽ không còn tốt bằng tình trạng nguyên thủy. Nhưng đối với vị Thiên Chúa toàn năng và toàn ái của chúng ta, chắc chắn Ngài sẽ không để cho sự cám dỗ của Satan tại vườn Địa đàng thành công ở chỗ là cho kế hoạch tạo dựng của Ngài trở nên xấu đi mặc dù đã được sửa chữa bằng kế hoạch cứu chuộc. Để làm cho Satan hoàn toàn thất bại, Ngài phải làm sao để kết quả của kế hoạch cứu chuộc phải trở nên tốt đẹp hơn cả kế hoạch nguyên thủy tức kế hoạch sáng tạo.

3.   Sự đồng công của Đức Mẹ trong công việc của Chúa Giêsu

Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các môn đệ, và sự can thiệp đặc biệt của Ngài để cứu nguy cho đám cưới ấy là một dấu hiệu hết sức ý nghĩa. Cuộc hôn nhân hay đám cưới (vốn thuộc kế hoạch thứ nhất) đã lâm vào tình trạng nguy khốn (hình ảnh của sự trục trặc gây ra do tội nguyên tổ) đã được Chúa Giêsu cứu chữa một cách hết sức tốt đẹp (kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa đã thành công).

Sự cứu chữa ấy có sự đóng góp hết sức quan trọng của Mẹ Maria: Chúa Giêsu đã thực hiện sự cứu chữa ấy theo yêu cầu đầy lòng thương người của Mẹ mình. Trong công việc cứu chữa đám cưới này, Đức Mẹ đã tỏ ra tư cách của mình là người Đồng Công Cứu Chuộc với Chúa Giêsu một cách hết sức rõ ràng và cụ thể. Công việc chính yếu là do Chúa Giêsu, nhưng nếu không có Mẹ Maria thì sự cứu chữa ấy có thể đã không xảy ra.

Người Kitô hữu cần ý thức hơn về vai trò rất quan trọng của Mẹ Maria trong việc nên thánh và sống đời Kitô hữu của mình. Trong việc nên thánh, tức hồi phục lại sự thánh thiện nguyên thủy của con người, những Kitô hữu nào biết cậy nhờ vào sự bảo trợ của Mẹ Maria và noi theo gương yêu thương tha nhân của Mẹ thì thường dễ thành công hơn.

4.   Mẫu gương quan tâm đến nhu cầu của tha nhân nơi Mẹ Maria

Lý do khiến Đức Mẹ trở nên Đấng Đồng Công với Chúa Giêsu, chính là tình yêu thương chan hòa của Ngài đối với mọi người, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo. Tình yêu thương ấy đã khiến Đức Mẹ trở nên hết sức nhậy cảm trước nhu cầu, nỗi khó khăn, sự đau khổ cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc của người khác. Vì thế, trong đám tiệc, khi chủ nhà sắp hết rượu, Đức Mẹ đã nhận ra ngay nỗi lo lắng của họ, cho dù Mẹ chỉ là một khách mời, lại là một phụ nữ thường đâu quan tâm đến việc ưống rượu của đàn ông, và theo lẽ thường chủ nhà cố gắng không biểu lộ ra.

Sự nhạy bén đó Mẹ có được là do lòng yêu thương của Mẹ đối với mọi người khiến Mẹ luôn quan tâm đến người khác, quan tâm đến từng chi tiết của đời sống. Có thể nói tình yêu luôn luôn phải được biểu lộ bằng sự quan tâm. Mặc dù quan tâm không phải lúc nào cũng là dấu chứng của yêu thương, nhưng chắc chắn rằng không quan tâm thì cũng đồng nghĩa với không yêu thương.

Chúng ta thường nghĩ rằng mình đang yêu thương, đặc biệt những người gần gũi ta nhất: cha mẹ, vợ/chồng, con cái, anh chị em ta. Nhưng có đích thật là ta yêu thương những người ấy không? ta có thật sự quan tâm đến niềm vui, nỗi buồn, niềm mong ước, hy vọng hay nhu cầu của họ không? ta có sẵn sàng thỏa mãnfa những nhu cầu ấy bất chấp phải hy sinh ít nhiều thì giờ, tiền bạc, sức lực của ta không? ta sẵn sàng tới mức độ nào? Nếu «đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết» (Gc 2,17), thì tương tự như vậy, tình yêu thương không được thể hiện thành sự quan tâm đến nhu cầu và hạnh phúc hay đau khổ của người mình yêu thương thì không phải là yêu thương thật sự. Vậy, chúng ta hãy chứng tỏ tình yêu thương của mình là tình yêu đích thực bằng sự quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ và nhu cầu của những người mình yêu thương, đồng thời sẵn sàng hy sinh thì giờ, sức lực, tiền bạc để thỏa mãn những gì họ cần.

CẦU NGUYỆN

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết bắt chước Mẹ, biết biểu lộ tình thương của con đối với những người chung quanh một cách cụ thể bằng sự quan tâm thật sự đối với những niềm vui, nỗi buồn, những thuận lợi cũng như những bất lợi của họ. Xin đừng để con thường xuyên vô tình, hay cố tình làm ngơ trước những nhu cầu hay những đau khổ của người khác.  

(Nguyễn Chính Kết)




Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

HL-1



HIỂU & SỐNG TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 1 sau lễ Hiển Linh
(Năm C − ngày 10-1-2016)



Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa

ĐỌC LỜI CHÚA

·    Is 40,1-5.9-11: (11) Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.

·    Tt 2,11-14; 3,4-7: (5) Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. (6) Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta.



·    TIN MỪNG: Lc 3,15-16.21-22

 Đức Giêsu chịu phép rửa


 (15) Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia! (16) Ông Gioan trả lời mọi người rằng: «Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa».

 (21) Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, (22) và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: «Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con».


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.   Tại sao người Do Thái lại tự hỏi: «Biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia»? Thái độ của Gioan thế nào? Ta học được gì nơi thái độ ấy?

2.   Đức Giêsu vô tội, tại sao Ngài lại lãnh nhận phép rửa của Gioan? Ngài muốn làm gương cho chúng ta? Hay Ngài sám hối thay cho cả nhân loại?

3.   Ta có thể bắt chước Ngài trong việc sẵn sàng gánh tội cho người khác, sám hối và sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho họ?

Suy tư gợi ý:

1.       Phép rửa của Gioan Tẩy Giả

Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước xuất hiện khoảng năm 30 sau công nguyên. Trước ông, có khoảng 20 vị ngôn sứ được Thánh Kinh ghi nhận đã xuất hiện rải rác trong khoảng 450 năm, bắt đầu là ngôn sứ Êlia (khoảng năm 900 trước CN), và cuối cùng là ngôn sứ Giona (khoảng năm 350 trước CN). Kể từ ngôn sứ Giona, suốt gần 400 năm, dân Do Thái không có một ngôn sứ nào xuất hiện. Năm 63 trước CN, Do Thái bị đế quốc Rôma thống trị tàn bạo, nên từ đó dân chúng ai nấy đều nóng lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân Ngài. Thế rồi Gioan Tẩy giả xuất hiện như một vị ngôn sứ, ông ăn mặc giống Êlia (2V 1,8; x. Mt 3,4), rao giảng cùng một sứ điệp như Êlia về sự phán xét của Thiên Chúa, đồng thời kêu gọi «hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần» (Mt 3,2) và loan báo sẽ có một «Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa» (Lc 3,16). Vì thế, dân chúng cảm thấy có một cuộc phục hưng lớn về mặt tôn giáo bắt đầu xảy ra để chuẩn bị Nước Trời sắp đến. Chính Gioan cũng rất ý thức về cuộc phục hưng ấy mà ông là người góp phần vào.

Trước khi Gioan xuất hiện, phép rửa là một nghi thức mà người Do Thái vẫn thường làm cho dân ngoại khi họ trở lại Do Thái giáo. Ai đã theo Do Thái giáo rồi thì không lãnh nhận phép rửa nữa. Còn Gioan thì lại làm phép rửa cho chính người đã theo Do Thái giáo. Phải nói đó là một chuyện lạ đời đối với dân chúng. Phép rửa của ông có ý nghĩa là: Nước Trời đã gần đến, mà người khai mạc là một «Đấng mạnh thế hơn ông đang đến, ông không đáng cởi quai dép cho Người» (Lc 3,16). Để đón Nước Trời cùng với Đấng ấy, con người phải chuẩn bị bằng việc sám hối, dù đã là người Do Thái giáo. Và hình thức biểu lộ cụ thể là lãnh nhận phép rửa. Chính Gioan đã xác nhận mục đích phép rửa của mình: «Tôi đến làm phép rửa trong nước là để Người được tỏ ra cho dân Ítraen» (Ga 1,31). Thánh Phaolô cũng viết: «Ông Gioan đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu» (Cv 19,4). Tóm lại, phép rửa của Gioan nhằm giúp dân chúng sám hối hầu chuẩn bị một kỷ nguyên mới do Đức Giêsu khai mạc và thực hiện.

Ngoài phép rửa ông đang làm, ông còn giới thiệu cho dân Do Thái một thứ phép rửa khác mà ông không làm được; đó là phép rửa của Đấng mà ông giới thiệu: «Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa» (Lc 3,16b). Vì thế, khi Đức Giêsu đến để xin ông làm phép rửa cho Ngài, thì ông thấy yêu cầu ấy quả là nghịch lý. Ông nói: «Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa» (Mt 3,14), thứ phép rửa «trong Thánh Thần và lửa» của Ngài, chứ đâu có chuyện ngược đời là ông lại làm phép rửa cho Ngài. Nhưng Đức Giêsu trả lời: «Chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính» (Mt 3,15). Lúc ấy Gioan mới chịu làm theo ý Ngài.

2.       Tại sao Đức Giêsu lại lãnh nhận phép rửa của Gioan?

Quả thật, việc Đức Giêsu đòi Gioan làm phép rửa cho mình là một chuyện nghịch lý. Nhưng Ngài có lý của Ngài. Chắc chắn Ngài chịu phép rửa của Gioan không phải như những người Do Thái khác là để tỏ lòng sám hối tội lỗi, vì bản thân Ngài hoàn toàn vô tội. Chính phép rửa của Gioan là để chuẩn bị tâm hồn con người đón Ngài đến, thì tại sao Ngài lại chịu phép rửa của Gioan? Sở dĩ Ngài xin Gioan làm phép rửa cho Ngài là vì:

– Tuy bản thân Đức Giêsu hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nghĩa là Ngài chất đầy tội lỗi của nhân loại trên bản thân mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, Ngài phải tự liệt mình vào hàng tội nhân cần phải sám hối.Thánh Phaolô viết: Ngài đã «mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta» (Rm 8,3b), thậm chí «Thiên Chúa đã lên án tội lỗi trong thân xác Con mình» (Rm 8,3c). Và Ngài sám hối thay cho toàn nhân loại, tương tự như một số ngôn sứ trước Ngài đã làm, chẳng hạn như Môsê (x. Xh 9,27; 32,31-32; Lv 8,14-15), Nêhêmi (x. Nkm 1,6-7), Ét-ra (x. Er 10,1.6) và Đanien (x. Đn 10,2) đã từng làm.

– Với tư cách Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Đức Giêsu muốn hòa mình với loài người tội lỗi để cùng họ sám hối trước mặt Thiên Chúa: Ngài “đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện… hầu đền tội cho dân” (Dt 2,17). Đây quả là thái độ khiêm nhường và đầy tình yêu, một thái độ cần thiết phải có để được tha tội, và riêng đối với Ngài, để chuộc tội cho nhân loại trước Thiên Chúa. Thái độ này khác hẳn với thái độ của người Pharisêu, thích tự coi mình là những người thánh thiện, muốn được tách biệt hẳn với đa số dân chúng mà họ coi là tội lỗi. Trái lại, Ngài tỏ ra rất thông cảm với những yếu đuối của con người, và không kết án họ (x. Ga 8,11; Lc 7,47-48).

– Đức Giêsu muốn đánh dấu việc bắt đầu cuộc đời công khai của mình bằng hành động sám hối thay cho nhân loại, và kết thúc cuộc đời Ngài bằng việc chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Cái chết của Ngài chính là «phép rửa bằng lửa» (x. Mt 3,11) cho những ai tin vào Ngài và sống giới răn yêu thương của Ngài. Phép rửa này có khả năng xóa sạch tội lỗi của họ trước mặt Thiên Chúa. Nhờ đó, toàn cuộc đời công khai của Ngài mang ý nghĩa sám hối và đền tội thay cho nhân loại. Như vậy, Ngài đã khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài với «phép rửa bằng nước» của Gioan, và kết thúc cuộc đời ấy với «phép rửa bằng lửa» là cuộc tử nạn thảm khốc của Ngài. Ngài đại diện cho nhân loại tội lỗi để nhận hai phép rửa ấy để Thiên Chúa xóa tội cho toàn nhân loại.

– Đức Giêsu muốn ủng hộ phép rửa và chủ trương phải sám hối của Gioan. Vì muốn gia nhập Nước Trời, công việc cần thiết đầu tiên là phải sám hối, nhìn nhận tội lỗi mình trước Thiên Chúa, quyết tâm sống đời sống mới, mặc lấy những quan niệm mới và thay đổi cách sống cho phù hợp với quan niệm mới ấy… Sám hối mà Gioan đòi hỏi không chỉ là thứ sám hối xuông theo nghi thức, chỉ tỏ vẻ hối hận nhưng sau đó không có gì thay đổi cả, mà là thứ sám hối đòi buộc phải có «hoa quả chứng tỏ lòng sám hối» (Mt 3,8).

3. Ý nghĩa tích cực của sám hối

Sám hối không chỉ là nhìn nhận bản chất mình là tội lỗi, mà còn phải nhận ra bản chất mình là «hình ảnh của Thiên Chúa», «được tạo dựng giống như Thiên Chúa» (St 1,26-27), là «con cái Thiên Chúa» (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4), nhưng lại sống không đúng với bản chất cao cả ấy của mình. Chính vì thế, chúng ta làm nhục Thiên Chúa. Tương tự như một hoàng tử, là cành vàng lá ngọc, mà lại làm những việc đê tiện, bỉ ổi khiến vua cha phải xấu hổ vì con. Thật vậy, nếu bản chất của ta là tội lỗi thì khi ta sống trong tội lỗi, ta không có gì đáng trách vì ta đã sống đúng với bản chất của mình. Tương tự như một người hạ tiện làm công việc hạ tiện thì không có gì đáng xấu hổ. Nhưng bản chất ta là thánh thiện, nếu ta lại chấp nhận vùi mình trong tội lỗi, thì ta thật đáng trách. Chẳng khác gì một người có tấm thân ngọc ngà mà lại cam lòng vùi mình vào đám phẩn hôi.

Nếu ta chưa sống đúng với bản chất thánh thiện cao cả của mình, thì sự công chính đòi hỏi ta phải sám hối. Sám hối là phải thay đổi quan niệm và trở thành «con người mới» (Ep 4,24; Cl 3,10), đúng với bản chất thánh thiện và cao cả ấy. Vì nhân loại đầy tội lỗi, Đức Giêsu đã phải thực hiện sự sám hối ấy với tư cách đại diện cho toàn nhân loại, để nhân loại nên công chính trước Thiên Chúa.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu thánh thiện và hoàn toàn vô tội, thế mà vì yêu thương nhân loại tội lỗi, Ngài đã gánh lấy tội lỗi nhân loại, và tự liệt mình vào hàng những người tội lỗi cần phải sám hối. Còn con thì lại hành động ngược lại, con tuy tội lỗi nhưng lại thích được người khác tôn vinh và đối xử như một người thánh thiện. Con rất ngại phải nhìn nhận mình có lỗi, có tội, mà thường muốn chối phăng những tội lỗi của mình. Xin Cha giúp con có được ý thức, tâm tình yêu thương và lòng dũng cảm như Đức Giêsu, để con cũng biết liên đới trách nhiệm với những tội lỗi của những người sống chung quanh con, những người đang cùng sống trong một xã hội với con. Amen.     

(Nguyễn Chính Kết)

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

GS-02-C



HIỂU & SỐNG TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 2 sau Giáng Sinh
(Năm C − ngày 3-1-2016)

Lễ Hiển Linh

ĐỌC LỜI CHÚA


·   Is 60,1-6: (3) Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. (4) Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.

·   Ep 3,2-3a.5-6: (5) Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. (6) Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.


·   TIN MỪNG: Mt 2,1-12

Các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu Hài Nhi

(1) Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, (2) và hỏi: «Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người». (3) Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ trả lời: «Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: (6) 'Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời».

 (7) Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: «Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người». (9) Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1. Lúc Đức Giêsu sinh ra, những ai biết được Ngài đã sinh ra và sinh ở đâu? Họ biết được là nhờ phương tiện gì? Phương tiện nào giá trị và chính xác nhất? Và phương tiện nào đã giúp đương sự thật sự gặp được Đức Giêsu?

2.  Biết về Thiên Chúa một cách đúng đắn và chính xác có bảo đảm là sẽ thật sự gặp gỡ và cảm nghiệm được Ngài không? Những kẻ không biết đúng đắn và chính xác về Ngài có thể gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài không? Yếu tố quan trọng để gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài là gì?

3. Bạn rút ra bài học gì về khả năng được cứu rỗi của dân ngoại? Điều quan trọng để được cứu rỗi là tin, là biết cho chính xác, hay là thực hiện điều mình tin, điều mình biết, tức thật sự sống tinh thần yêu thương của Thiên Chúa?


Suy tư gợi ý:

1. Ba cách biết khác nhau về sự kiện Đấng Cứu thế sinh ra

Cách đây khoảng 2000 năm, Đức Giêsu – Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã tiên báo hàng trăm năm trước – đã sinh ra một cách rất âm thầm tại làng Bêlem. Âm thầm, nhưng vẫn có những người biết sự kiện này. Đó là các mục đồng, rồi đến các nhà chiêm tinh ngoại giáo, sau cùng là vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái. Họ biết theo những cách thức khác nhau, và phản ứng của họ sau khi biết cũng rất khác nhau.

Các mục đồng đơn sơ chất phác thì được các thiên sứ trực tiếp đến báo tin. Đây là cách biết dễ dàng nhất, mau lẹ nhất, khỏe nhất, không đòi hỏi tài năng hay suy luận cao xa, không đòi hỏi phải chủ động tìm kiếm rồi mới biết, mà lại chính xác nhất… Tất cả đều do Thiên Chúa sắp đặt và cho biết một cách vô điều kiện. Và sau khi biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu, các mục đồng đã đến thăm viếng Ngài.

Các nhà chiêm tinh thì biết theo kiểu khác. Các ông khám phá ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Các ông dùng kiến thức về chiêm tinh học để suy đoán ra ý nghĩa của ngôi sao ấy. Và điều rất quan trọng là, dù xa xôi và biết rất mù mờ, các ông đã lên đường tìm kiếm «Đức Vua Dân Do Thái mới sinh» (Mt 2,2). Và các ông đã gặp được Ngài là một hài nhi nằm trong máng cỏ. Cách biết này mang tính tự nhiên, không chính xác, đòi hỏi thêm nhiều kiến thức tự nhiên của con người. Tuy vậy, cách biết bất toàn này đã giúp các ông thật sự gặp được Đấng Cứu Thế mới sinh. Điều chúng ta cần đặc biệt quan tâm ở đây, là các nhà chiêm tinh này là dân ngoại, không có tôn giáo chính thức của Thiên Chúa, và cũng không có mặc khải chính thức từ Thiên Chúa.

Vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái lại biết theo kiểu khác nữa. Nếu không nhờ các nhà chiêm tinh đến hỏi thăm thì họ sẽ chẳng bao giờ đặt vấn đề hay tìm hiểu về việc Đấng Cứu Thế sinh ra. Nhưng phải công nhận là sau khi được hỏi tới, nhờ tra cứu Kinh Thánh là mặc khải siêu nhiên và bảo đảm của Thiên Chúa, họ biết ngay nơi Đấng Cứu Thế sinh ra là làng Bêlem. Nhưng khác với hai loại người trước, họ biết rồi để đấy. Cái biết của họ – tuy rất chính xác và bảo đảm – chỉ là một cái biết thuần túy, chẳng dẫn tới hành động, chẳng dẫn họ đến với Đấng Cứu Thế, cội nguồn ơn cứu độ. Điều chúng ta cần lưu ý và có thể làm chúng ta ngạc nhiên, đó là Vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái là những vị đại diện cao cả nhất của dân tộc Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, của tôn giáo Do Thái là tôn giáo chính thức của Thiên Chúa, được Thiên Chúa chính thức mặc khải về Ngài qua Môsê và các ngôn sứ.

2. Phải lên đường đi tìm, phải biến cái biết thành hành động

Như vậy, để biết về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, hay về chân lý có thể có nhiều cách biết khác nhau. Có cách do tự nhiên, có cách do siêu nhiên; có cách hoàn toàn do Thiên Chúa, có cách đòi hỏi sự góp phần của con người; có cách bảo đảm đúng và dễ dàng, có cách còn mơ hồ và còn phải nỗ lực nhiều mới đạt được sự chính xác… Nhưng xem ra không phải những ai biết chính xác về Thiên Chúa thì sẽ đương nhiên gặp được Ngài, và không phải những ai không biết đúng về Ngài thì sẽ không gặp được Ngài.

Thật vậy, nhiều người biết rất chính xác về Thiên Chúa nhưng lại chẳng có một nỗ lực nào đi tìm Ngài, nên cái biết ấy trở thành vô ích chẳng hơn gì không biết! Ngược lại, có những người biết về Ngài rất lờ mờ, thậm chí sai lạc, nhưng lại có quyết tâm đi tìm Ngài. Cuối cùng chỉ những người thật sự đi tìm Ngài mới gặp được Ngài. Vì đối với Thiên Chúa hay Chân Lý, thì «ai tìm, sẽ thấy» (Mt 7,7-8). Còn dù biết về Ngài từ những nguồn chính xác, đáng tin nhất, nhưng không lên đường đi tìm Ngài, thì cái biết ấy vô ích. Cái biết ấy tuy quí giá, nhưng chẳng khác gì một món tiền lớn đựng mãi trong két sắt, chẳng bao giờ được đem ra xài, nên chẳng lợi ích gì cho người chủ của nó: chủ nó thiếu thốn vẫn tiếp tục thiếu thốn.

Quả thật, khá nhiều người Kitô hữu tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo mặc khải, là tôn giáo chân chính phát xuất từ Thiên Chúa. Họ biết rất nhiều và rất chính xác về Thiên Chúa. Nhưng cái biết ấy chẳng đem lại lợi ích gì cho tâm linh và sự sống đời đời của họ. Vì họ chẳng đem cái biết ấy ra thực hành. Đức Giêsu nói họ chẳng khác gì những «người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,26). Giữa việc biết và việc thực hành cái biết ấy là cả một vực thẳm phải vượt qua, như một linh mục nọ thường nói: «Từ cái tai đến cái tay là cả một khoảng cách» (Lm Nguyễn Văn Siêu, sj).

3. Nỗ lực thành công của dân ngoại đến tìm Chúa

Bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh hôm nay cho thấy: dân ngoại mà nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì sẽ gặp được Ngài, còn chính dân của Thiên Chúa nếu không tìm kiếm Ngài thì chẳng gặp được Ngài. «Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý» (1Tm 2,4; x. Dt 2,9), nên đối với những người ngoài Kitô giáo, Thiên Chúa vẫn dành cho họ những con đường riêng biệt để đến với Ngài, nhưng «bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết thôi» (Vatican II, Hiến chế Mục Vụ 22§5). Trước Công Đồng Vatican II, người Kitô hữu thường quan niệm: không tin Thiên Chúa, không rửa tội, không phải là Kitô hữu thì không được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay và rất nhiều đoạn Thánh Kinh khác cho thấy lập trường của Công Đồng Vatican II là đúng.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy có những con đường riêng biệt, không chính thống, nhưng vẫn dẫn đến Thiên Chúa, dẫn đến việc gặp gỡ Ngài, bằng một trình thuật đầy oái oăm: Những kẻ có tôn giáo chân chính, có Kinh Thánh hay Lời Chúa trong tay, hiểu biết rất chính xác về Thiên Chúa thì lại không gặp được Ngài. Còn những kẻ không có tôn giáo chân chính, không có phương tiện hữu hiệu để biết Ngài, thì lại gặp được Ngài nhờ quyết tâm tìm kiếm Ngài. Điều ấy thật ứng nghiệm lời Kinh Thánh: «Dân mà trước đây không phải là dân của Ta, thì Ta sẽ gọi là Dân của Ta» (Os 1,10 ® Rm 9,26).

Với những kẻ tự hào mình có tôn giáo chân chính, có Lời Chúa trong tay mà không chịu sống tôn giáo ấy, không chịu thực hành Lời Chúa, thánh Phaolô viết: «Còn bạn, bạn mang danh là đạo Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào mình có Thiên Chúa; bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa! Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân» (Rm 2,17-18.23-24).

Những người này, cũng theo thánh Phaolô, trước mặt Thiên Chúa, không giá trị bằng những người ngoại mà sống đúng theo luật lương tâm: «Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. Nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật» (Rm 2,25-27). Để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, ta có thể thay từ «cắt bì» bằng từ «rửa tội» thì sẽ thấy rõ ý nghĩa của đoạn này cho thời đại của chúng ta.

Do đó, được là người Kitô hữu là một ơn rất lớn lao và đặc biệt. Nhưng lại cũng là một trách nhiệm, vì ai nhận nhiều thì sẽ bị đòi hỏi phải sinh lợi ra nhiều, ai nhận ít thì bị đòi hỏi ít (x. dụ ngôn yến bạc: Mt 25,14-30). Nếu ta sống đúng tinh thần của người Kitô hữu là luật yêu thương của Đức Giêsu (x. Ga 13,34), thì hạnh phúc và phần thưởng cho chúng ta, đời này cũng như đời sau (x. Lc 18,30; Mc 10,30), sẽ vô cùng lớn lao. Nhưng nếu ta không đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra thực hành trong đời sống, thì giá trị của ta trước Thiên Chúa sẽ không bằng người ngoại giáo biết sống đúng theo lương tâm của họ.

4.  Tương quan giữa biết và làm, giữa tin và yêu, giữa đức tin và đức ái

Từ bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể rút ra một bài học quan trọng. Giữa biết và làm, thì ‘biết’ là phương tiện còn ‘làm’ là mục đích. ‘Biết’ rất là quan trọng, vì không biết thì không thích, không yêu, và không dẫn đến việc làm. Và biết sai thì sẽ dẫn đến làm sai. Câu «Thiện chí cộng với ngu dốt (tức ‘không biết’) thành phá hoại» không phải là phi lý. ‘Biết đúng’ tuy rất quan trọng, nhưng nếu không dẫn đến việc làm, thì cái biết ấy trở thành vô ích. Tương tự như vậy, đức tin rất quan trọng, nhưng đức tin có mạnh đến đâu mà không dẫn đến đức ái, đến lòng yêu thương Thiên Chúa qua đồng loại, thì «đức tin không hành động ấy là đức tin chết» (Gc 2,17). Thánh Phaolô cũng xác định rõ ràng: «Giả như tôi có đức tin mạnh đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì» (1Cr 13,2).

Tóm lại, bài học có thể rút ra được từ bài Tin Mừng hôm nay, đó là có được tôn giáo chính thống từ Thiên Chúa là một ơn huệ lớn lao của Thiên Chúa, nhờ đó ta có thể biết con đường ngắn nhất, chính xác nhất để đến với Thiên Chúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là cứ có tôn giáo chính thống thì ta sẽ đến được với Thiên Chúa. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ chúng ta có chịu lên đường để đi hay không, nghĩa là có thật sự thực hành những điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm, là yêu Thiên Chúa qua tha nhân hay không. Ngược lại, người không có tôn giáo chính thống từ Thiên Chúa, nhưng họ thật sự sống theo lương tâm, theo sự đòi hỏi của tình thương trong lòng họ, thì họ vẫn có thể đến với Thiên Chúa một cách chắc chắn hơn những Kitô hữu sống không tình thương. Nhiều khi chúng ta giống như con cái những nhà giàu có, với đủ mọi phương tiện để học thành tài, nhưng chúng ta không thành tài như con cái của những nhà nghèo khổ, thiếu đủ mọi phương tiện, nhưng biết cố gắng học hành trong những điều kiện khó khăn nhất.

Thánh Gioan đã cho chúng ta một tiêu chuẩn để phân biệt đâu là con cái của Thiên Chúa và đâu là con cái của ma quỷ, đó chính là tình yêu thương đồng loại: «Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ : phàm ai không sống công chính, không yêu thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa» (1Ga 3,10); «Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết» (1Ga 3,14). Thế giới này bất ổn, loạn lạc, bất công, đau khổ, không phải vì người ta thiếu đức tin, thiếu các tôn giáo, mà vì người ta thiếu tình yêu thương đồng loại.

Do đó, chúng ta cần phải biết cái cốt tủy hay yếu tính của tôn giáo mình là gì. Chắc chắn không phải là những lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà là tình yêu đối với Thiên Chúa qua đồng loại. Đức Giêsu nói thật rõ ràng: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13). Tại sao ta lại coi lễ tế quan trọng hơn cả lòng nhân? Chúng ta thực hành đủ mọi thứ phụ thuộc, nhưng lại thiếu cái cốt tủy quan trọng nhất ấy, thì ích lợi gì việc thực hành những thứ phụ thuộc kia?

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, là người Kitô hữu, chúng con thường tự hào rằng tôn giáo của mình là chính giáo. Nhưng quả thật, nhiều khi chúng con lại không sống tinh thần yêu thương của Đức Kitô bằng nhiều người ngoại giáo. Qua bài Tin Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, xin cho chúng con ý thức được nguy cơ này: coi chừng chúng con cũng giống như Hêrôđê và các kinh sư Do Thái, có tôn giáo chân chính, có phương tiện để gặp Cha, để được cứu rỗi trong tay, nhưng cuối cùng tất cả những ưu đãi ấy đều trở thành vô ích vì sự ù lỳ của chúng con. Đang khi ấy, nhiều người ngoại giáo lại có diễm phúc gặp Cha và gần Cha hơn chúng con, chỉ vì họ biết dấn thân quảng đại đáp lại những ơn Cha ban, dù ơn đó họ được ít ỏi hơn chúng con. Xin cho chúng con biết thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, để chúng con xứng đáng là người Kitô hữu đích thực.                                                               


Nguyễn Chính Kết