Thứ Năm, 21 tháng 4, 2016

PhucSinh5-C

Chúa Nhật Thứ 5
Mùa Phục Sinh
 (Năm C − ngày 17-4-2016)

ĐỌC LỜI CHÚA

·    Cv 14,21b-27: (22) «Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa».

·    Kh 21,1-5a: (1) Tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển không còn nữa. (2) Tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới. (5) Rồi Đấng ngự trên ngai phán: «Này đây Ta đổi mới mọi sự».

·    TIN MỪNG: Ga 13,31-33a.34-35

Những lời cáo biệt

(31) Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. (32) Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (33) Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do thái: «Nơi tôi đi, các người không thể đến được», bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như vậy. (34) Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (35) Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau».


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao khi sắp lên đường chịu khổ hình, Đức Giêsu lại nói: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh»? Phải chăng chịu khổ hình chính là được tôn vinh? Sao lại ngược đời thế? Hay đó là hai mặt của cùng một thực tại?

2. Tại sao giới răn duy nhất của Đức Giêsu lại chỉ nói đến tình yêu đối với tha nhân, mà không nói gì đến tình yêu đối với Thiên Chúa? Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân có phải là hai tình yêu tách biệt nhau? Hay đó cũng là hai mặt của một tình yêu duy nhất?

3.  Có thể yêu Thiên Chúa mà không yêu tha nhân, hay yêu tha nhân mà không yêu Thiên Chúa không?


Suy tư gợi ý:

1. Đau khổ và vinh quang, yêu Chúa và yêu người là hai mặt của một thực tại duy nhất

a) Đau khổ và vinh quang chỉ là một thực tại: Khi sắp phải lên đường chịu khổ hình, Đức Giêsu nói một câu nghe rất là phấn khởi: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh» (Ga 13,31). Như vậy phải chăng chịu đau khổđược tôn vinh đồng nghĩa với nhau? – Theo quan niệm của người bình thường trong thế gian thì đó là hai điều nghịch nghĩa nhau. Nhưng theo quan niệm của Đức Giêsu thì hai điều nghịch nhau ấy tương tự như hai mặt liền nhau của một tờ giấy. Nghĩa là chịu đau khổđược tôn vinh là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất, và điều này là nguyên nhân dẫn tới điều kia. Thật vậy, trong Thánh Kinh, đặc biệt trong Tin Mừng, ta thấy có nhiều câu nói lên sự nghịch lý ấy và tương quan chặt chẽ giữa hay mặt nghịch nhau ấy. Chẳng hạn: «Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25); «Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người» (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8); «Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng; đi khóc lóc u sầu sẽ về giữa muôn lời ca» (Tv 126,5-6); v.v...

b) Điều răn mới của Đức Giêsu: Trong đời sống thực tế cũng như trong đời sống tâm linh, có vô số thực tại có hai mặt liền nhau như thế. Trong đó, có một thực tại được Đức Giêsu đề cập đến trong giờ phút chót bên các tông đồ trước khi chia tay các ông để ra đi chịu khổ hình. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của điều Ngài sắp truyền dạy các ông, Ngài nói: «Thầy chỉ còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi» (Ga 13,33b). Có thể nói: điều Ngài sắp truyền dạy sau đó, chính là lời trăn trối hay sứ điệp cuối cùng của Ngài. Vì thế, nó hết sức quan trọng, thậm chí có thể nói nó tóm gọn lại tất cả những gì Ngài nói trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng của Ngài. Lời trăn trối đó chính là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,34-35). 

2. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai mặt của một tình yêu duy nhất

a) Hai giới răn tách biệt của Cựu Ước: Hai điều quan trọng nhất của Cựu ước được nói tới ở hai quyển sách khác nhau: Đệ Nhị Luật và Lêvi: «Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết dạ, hết sức anh em» (Đnl 6,5) và «Hãy yêu thương đồng loại như chính mình» (Lv 19,18). Từ đó, người Do Thái phân biệt và cũng tách biệt hai thứ tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân. Đức Giêsu cũng xác nhận và tóm gọn toàn bộ Cựu ước vào hai lề luật có vẻ như tách rời nhau ấy: «Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).

b) Đức Giêsu gộp hai giới răn của Cựu Ước thành một: Nhưng trong những lời trăn trối của Đức Giêsu, Ngài chỉ nói tới tình yêu đối với tha nhân như giới răn duy nhất của Ngài. Giới răn ấy không hề nói tới việc yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, có phải Ngài đã bỏ đi giới răn yêu mến Thiên Chúa chăng? Ngài coi việc yêu mến Thiên Chúa là không quan trọng sao? Phải chăng Ngài chỉ chú trọng tới con người mà quên Thiên Chúa, Cha của Ngài?

– Chắc chắn không phải vậy. Không ai yêu mến Thiên Chúa bằng Ngài, và cũng không ai yêu tha nhân bằng Ngài. Nhưng Ngài nhận thấy hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, và mặt này luôn luôn dính liền với mặt kia. Nghĩa là: tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì mặc nhiên bao hàm tình yêu đối với tha nhân; và ngược lại. Hai tình yêu ấy chỉ có thể phân biệt trên lý thuyết hay theo lý trí, chứ không thể tách biệt trong thực tế của đời sống. Vì thế, ai yêu Thiên Chúa đích thực thì tự nhiên người ấy cũng sẽ yêu thương tha nhân đích thực, và ngược lại. Do đó, ai không yêu mến Thiên Chúa thì tự nhiên người ấy cũng sẽ không yêu tha nhân, và ngược lại.

c) Một điểm khác biệt giữa Tân Ước và Cựu Ước: Như vậy, một trong những điểm khác biệt căn bản giữa Tân Ước và Cựu Ước là: Cựu Ước coi việc yêu Chúa và yêu người là hai giới răn tách biệt, còn Tân Ước thì gộp hai giới răn ấy thành một giới răn duy nhất. Xét cho kỹ thì điều răn mới của Đức Giêsu có vẻ như chẳng có gì là mới, vì nó đã có sẵn trong Cựu Ước (x. Lv 19,18). Nhưng nó mới ở chỗ Ngài gộp hai giới răn thành một giới răn duy nhất. Nếu chúng ta vẫn coi hai giới răn ấy tách biệt nhau, thì chứng tỏ ta chưa thấy được cái gì là «mới» trong «điều răn mới» của Đức Giêsu.

3. Nơi Đức Giêsu, yêu thương và hy sinh cho tha nhân cũng là thờ phượng Thiên Chúa

a) Yêu người cũng là thờ phượng Thiên Chúa: Chính vì yêu thương nhân loại mà Đức Giêsu đã xuống thế làm người, sống cuộc đời trần thế với bao khổ đau như mọi người. Chính vì yêu thương nhân loại mà Ngài chịu khổ hình và chết nhục nhã trên thập giá. Điều chúng ta cần suy nghĩ và cần rút ra kết luận, đó là: tất cả những hành vi yêu thương và sự hy sinh cho nhân loại của Đức Giêsu như xuống thế, sống đời trần thế, chịu khổ hình và chết trên thập tự, và ngay cả hành vi lập phép Thánh Thể của Ngài cũng đều là những hành vi được Giáo Hội nhìn nhận là những hành vi thờ phượng Thiên Chúa. Chẳng những thế, Giáo Hội còn coi đó là hành vi thờ phượng Thiên Chúa chính danh nhất, đúng nghĩa nhất. Nơi Đức Giêsu, yêu thương nhân loại và thờ phượng Thiên Chúa chỉ là một hành vi duy nhất. Nói khác đi, theo Ngài, yêu thương nhân loại cũng chính là thờ phượng Thiên Chúa.

b) Yêu Chúa và yêu người không thể tách rời nhau: Do đó, nơi Đức Giêsu không có sự tách biệt giữa hai việc: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người. Hễ yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải yêu thương con người. Mà yêu thương và hy sinh cho tha nhân cũng chính là yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa cách tuyệt hảo nhất. Hai điều đó, hai giới răn đó tự bản chất chỉ có thể phân biệt chứ không thể tách biệt. Tách rời nhau được thì chúng không còn là yêu mến Thiên Chúa hay yêu thương tha nhân đúng nghĩa nữa.

c) Phải thờ phượng Thiên Chúa bằng cái tâm yêu thương: Thờ phượng Thiên Chúa bằng cái tâm yêu thương tha nhân có giá trị hơn những nghi thức tôn giáo, vì điều cốt yếu nhất trong việc thờ phượng là sự hy sinh: mọi sự thờ phượng từ nguyên thủy đều đòi hỏi sự hy sinh, mất mát, thiệt thòi nào đó, chẳng hạn thời Cựu Ước, thờ phượng Thiên Chúa bằng việc sát tế một con vật vốn là của cải hay sở hữu của mình. Tuy nhiên, sát tế hay hy sinh một vật ngoài mình không giá trị bằng sát tế hay hy sinh chính mình hay một cái gì đó thân thiết nhất của mình như mạng sống, hạnh phúc, an toàn bản thân, danh dự, uy tín, sức khỏe, ý riêng, người mình yêu, vật mình quý… Qua câu Kinh thánh Mt 5,23-24, ta thấy Đức Giêsu coi việc làm hòa với người anh em đang giận mình hay bị mình giận còn quan trọng hơn việc dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Hay nói khác đi, có thể Thiên Chúa không muốn chấp nhận những lễ vật của những người không chịu làm hòa hay sống hòa thuận với tha nhân.

d) Thờ phượng bằng «thần khí» là thờ phượng bằng «cái tâm»: Khá nhiều nghi thức thờ phượng trong tôn giáo không hề đòi hỏi kẻ thờ phượng phải hy sinh, phải chấp nhận đau khổ, nếu có thì chỉ đòi hỏi hy sinh những gì bên ngoài mình, không mấy thân thiết với mình. Nếu đòi hỏi phải hy sinh bản thân hay những thứ thân thiết nhất với mình mới là sự thờ phượng chân chính, ắt số người thờ phượng đúng nghĩa sẽ ít hơn rất nhiều. Thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải là thờ phượng bằng «cái tâm yêu thương», nghĩa là bằng «thần khí» của mình, chứ không phải chỉ bằng những gì thấy được bên ngoài. Nếu có «cái tâm yêu thương» ở bên trong thì những hành vi yêu thương thấy được bên ngoài mới là «sự thật», là «yêu thương chân thật». Nếu không có «cái tâm yêu thương» ấy thì những hành vi yêu thương bên ngoài được thúc đẩy bởi những động lực vị kỷ (như để được mọi người khen, để tạo uy tín cá nhân, v.v...) chỉ là giả dối, không có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa (x. 1Cr 13,3).

Do đó, cần thờ phượng Thiên Chúa bằng «cái tâm yêu thương» chân thật đối với Thiên Chúa và tha nhân. «Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế», những người «thờ phượng Chúa Cha trong thần khí sự thật» (Ga 4,23).

Hành vi nào của Đức Giêsu ở trần gian cũng đều vừa là yêu thương con người, vừa là thờ phượng Thiên Chúa. Dù chỉ là một hành vi nhưng có hai giá trị gắn liền nhau không thể tách rời. Và có thể nói, nơi Ngài, yêu thương con người và thờ phượng Thiên Chúa là một hành vi duy nhất, một giới răn duy nhất, không phải là hai giới răn tách biệt nhau.

e) Tiêu chuẩn để Thiên Chúa phán xét: Chính vì thế, tới ngày phán xét số phận đời đời của mỗi người, Thiên Chúa chỉ dùng một tiêu chuẩn duy nhất để phán xét, đó là: «Mỗi lần các ngươi làm (hay không làm) như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (hay không làm) cho chính Ta vậy» (Mt 25,40.45).

4. Tại sao Đức Giêsu nhấn mạnh yêu người thay vì yêu Thiên Chúa?

Nếu hai giới răn ấy chỉ là một giới răn duy nhất, tại sao Đức Giêsu không diễn tả giới răn ấy bằng tình yêu đối với Thiên Chúa, mà lại diễn tả giới răn ấy bằng tình yêu đối với tha nhân? – Thưa: Có thể vì những lý do sau đây:

a) Thiên Chúa thì thiêng liêng, còn tha nhân thì cụ thể: Thiên Chúa thì thiêng liêng, trừu tượng, nên đối với người bình thường, quan niệm và tiếp cận Thiên Chúa là điều khó. Yêu Thiên Chúa đích thực cho đúng nghĩa là yêu, lại càng khó hơn. Còn tha nhân là cụ thể và lúc nào cũng có sẵn ngay trước mắt, rất dễ quan niệm, rất dễ tiếp cận và cũng dễ yêu thương đúng nghĩa hơn là yêu chính Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Thánh nhân cho rằng tha nhân cụ thể trước mắt như thế mà yêu không được, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa là một thực tại hết sức trừu tượng, khó quan niệm và không thể thấy được? Nhiều người cho rằng yêu Thiên Chúa dễ hơn yêu tha nhân. Quan niệm như thế thì ngược hẳn với quan điểm của thánh Gioan. Vì theo thánh nhân, những ai không yêu tha nhân nhưng lại cứ ngỡ rằng mình yêu Thiên Chúa, thì kẻ ấy là kẻ nói dối, hay nói đúng hơn là kẻ tự lừa dối mình. Thánh nhân còn xác định rõ ràng như một định luật: «Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình» (1Ga 4,21).

b) Con người có thể tự lừa dối mình mà không biết: Với bản tính đã bị băng hoại vì tội lỗi, con người dễ ngụy trang tình yêu ích kỷ đối với bản thân mình bằng những hình thức yêu mến Thiên Chúa ở bề ngoài. Từ đó, con người tự lừa dối chính mình. Thật vậy, nếu chúng ta có đầu óc phản tỉnh mạnh, chúng ta dễ nhận ra tình yêu mà nhiều người tưởng rằng mình đang dành cho Thiên Chúa, trong thực tế chỉ là tình yêu đối với chính bản thân mình. Mình yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa tốt lành, giàu sang, có quyền thi ân cũng như giáng họa trên mình. Vì thế, mình phải đối xử với Thiên Chúa thế nào để có lợi cho mình nhất: nghĩa là để được Thiên Chúa ban ơn, chúc phúc, đồng thời ngăn ngừa và cứu giúp mình khỏi mọi tai họa. Nhiều khi tình yêu của ta đối với Thiên Chúa có phần nào tương tự như tình yêu của ta đối với những người giàu sang quyền thế, những kẻ có khả năng thi ân giáng họa cho ta. Phân tích cho kỹ thì tình yêu ấy rốt cuộc chỉ là tình yêu đối với chính bản thân mình, nhưng được ngụy trang thành cách đối xử có vẻ yêu quí người giàu sang quyền thế kia. Cách đối xử có vẻ yêu thương ấy có ít nhiều yếu tố «cầu cạnh» trong đó.

Nếu chúng ta cứ hết lời ca tụng Thiên Chúa, nhưng cách sống thực tế của chúng ta chứng tỏ rằng chúng ta không tin tưởng vào những lời ca tụng ấy, thì phải chăng những lời ca tụng ấy chỉ là những lời nịnh nọt giả dối? Thờ phượng Thiên Chúa kiểu ấy không phải là «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật» (Ga 4,23).

c) Sự khôn ngoan và tính sư phạm của Đức Giêsu: Hai giới răn quan trọng nhất có vẻ như tách biệt nhau ấy của Cựu ước, Đức Giêsu đã tổng hợp thành một giới răn duy nhất. Và theo sự khôn ngoan và tính sư phạm của Ngài, trong hai mặt ấy, Ngài chỉ dùng có một mặt – mặt mà Ngài muốn nhấn mạnh – để diễn tả trọn vẹn giới răn hai mặt ấy. Và mặt ấy là tình yêu đối với tha nhân, chứ không phải tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng tiếp nối tinh thần này của Đức Giêsu, nên đã viết: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» của Đức Kitô (Rm 13,8.10; x. Gl 6,2). Thánh nhân dùng chữ «chu toàn» có nghĩa là đã giữ luật một cách hoàn hảo. Ngài còn nhấn mạnh: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gl 5,14). Xin lưu ý chữ «duy nhất». Như vậy, Đức Giêsu đã biến giới răn yêu Thiên Chúa, một giới răn thật trừu tượng, thành một giới răn hết sức cụ thể, có thể tự kiểm chứng được dễ dàng, là yêu tha nhân.

d) Tình yêu đối với tha nhân là thước đo tình yêu đối với Thiên Chúa: Do đó, muốn biết tình yêu của mình đối với Thiên Chúa có thật sự là tình yêu đích thực hay không, hay đó chỉ là hình thức bên ngoài của một tình yêu vị kỷ đối với bản thân mình, thì: theo tinh thần của những câu Kinh Thánh trên, cách bảo đảm nhất là xét xem mình có thật sự yêu thương và hy sinh cho tha nhân không. Thánh Gioan viết: «Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu anh em mình, người ấy là kẻ nói dối» (1Ga 4,20). Có thể nói: tình yêu đối với tha nhân chính là thước đo, là biểu đồ cụ thể của tình yêu đối với Thiên Chúa. Nói khác đi: «Hãy cho tôi biết anh yêu tha nhân ra sao, tôi sẽ nói cho anh biết anh yêu Thiên Chúa đến mức nào!»

Đó là lý do tại sao mà ngày phán xét, Quan tòa Giêsu không hề xét xem chúng ta đã đối xử với Thiên Chúa thế nào, mà chỉ xét có một điều duy nhất – là chúng ta đã yêu thương và đối xử với tha nhân ra sao – để biết chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa đến mức nào! (x. Mt 25,31-46).


CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con đã nghe không biết bao nhiêu lần câu này của Đức Giêsu: «Mỗi lần các ngươi làm điều gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta» (Mt 25,40). Nhưng khi gặp những anh em bé nhỏ ấy của Ngài bị đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, ức hiếp, thì con lại làm ngơ, mặc kệ. Nhiều khi con còn nói: họ khổ như vậy thật đáng đời! Con chỉ muốn đối xử thật tốt với chính bản thân Đức Giêsu mà thôi: bằng cách đi lễ rước lễ cho nhiều, mua những bức tượng thật quý giá của Ngài để trưng trên bàn thờ, đọc kinh cho thật dài và sốt sắng… Lạy Cha, con làm như thế có đúng không? Có đẹp lòng Cha không? Xin Cha soi sáng chỉ dẫn cho con.    

(Nguyễn Chính Kết).

Không có nhận xét nào: